top of page

Tang truong kinh te voi van de phat trien ben vung o Viet Nam

Writer's picture: Luận Văn ViệtLuận Văn Việt

Trong bài viết này, Luận Văn Việt chuyên viết thuê luận án tiến sĩ xin chia sẻ đến bạn đọc về chủ đề tăng trưởng kinh tế với vấn đề phát triển bền vững ở Việt Nam. Đây là một trong những đề tài tiểu luận khá phổ biến ở trường đại học. Nếu bạn cũng đang làm đề tài này hãy tham khảo ngay nhé.

📷

Tăng trưởng kinh tế với vấn đề phát triển bền vững ở Việt Nam

1. Khái niệm tăng trưởng kinh tế và phát triển kinh tế

Ngày nay các quốc gia độc lập, có chủ quyền đều đề ra những mục tiêu phấn đấu cho sự tiến bộ của quốc gia mình. Tuy có những khía cạnh khác nhau nhất định trong quan niệm, nhưng nói chung, sự tiến bộ trong mét giai đoạn nào đó của một nước thường được đánh giá trên hai mặt: sự gia tăng về kinh tế và sự biến đổi về mặt xã hội. Trên thực tế, người ta thường dùng hai thuật ngữ tăng trưởng và phát triển để phản ánh sự tiến bộ đó.

1.1. Tăng trưởng kinh tế

Tăng trưởng kinh tế thường được quan niệm là sự tăng oil (hay gia tăng) về qui  mô sản lượng của nền kinh tế trong một thời ký nhất định. Đó là kết quả của tất cả các hoạt động sản xuất và dịch vụ của nền kinh tế tạo ra. Do vậy, để biểu thị sự tăng trưởng kinh tế, người ta dùng mức tăng oil của tổng sản lượng nền kinh tế (tính toàn bộ hay tính bình quân theo đầu người) của thời kỳ sau so với thời kỳ trước. Như vậy, tăng trưởng kinh tế được xem xét trên 2 mặt biểu hiện: đó là mức tăng tuyệt đối hay mức tăng phần trăm (%) hàng năm, hoặc bình quân trong mét giai đoạn.

Sự tăng trưởng được so sánh theo các thời điểm liên tục trong một giai đoạn nhất định, sẽ cho ta khái niệm tốc độ tăng trưởng. Đó là sự tăng oil sản lượng nhanh hay chậm so với thời điểm gốc.

1.2. Phát triển kinh tế

Phát triển kinh tế có thể hiểu là một quá trình lớn lên (hay tăng tiến) về mọi mặt của nền kinh tế trong một thời kỳ nhất định. Trong đó bao gồm cả sự tăng oil về qui mô sản lượng (tăng trưởng) và sự tiến bộ về cơ cấu kinh tế- xã hội.

Những vấn đề cơ bản nhất định của định nghĩa trên bao gồm:

Trước hết sự phát triển bao gồm cả sự tăng oil về khối lượng của cải vật chất, dịch vụ và sự biến đổi tiến bộ về cơ cấu kinh tế và đời sống xã hội.

Tăng quy mô sản lượng và tiến bộ về cơ cấu kinh tế – xã hội là hai mặt có mối quan hệ vừa phụ thuộc vừa độc lập tương đối của lượng và chất.

Sự phát triển là một quá trình tiến hoá theo kịp thời gian do những nhân tố nội tại của bản thân nền kinh tế quyết định

Kết quả của sự phát triển kinh tế –xã hội là kết quả của một quá trình vận động khách quan, còn mục tiêu phát triển kinh tế, xã hội đề ra là thể hiện sự tiếp cận tới các kết quả đó.

Ngoài dịch vụ viết luận văn tốt nghiệp của Luận Văn Việt, bạn có thể tham khảo dịch vụ làm báo cáo thuê , chạy spss thuê , viết luận văn tiếng anh , làm tiểu luận thuê

2. Một số chỉ tiêu đánh giá

Phát triển kinh tế là một khái niệm chung nhất về một sự chuyển biến của nền kinh tế, từ trạng thái thấp lên một trạng thái cao hơn. Do vậy, không có tiêu chuẩn chung về sự phát triển. Các nhà kinh tế học phân quá trình đó ra các nấc thang: kém phát triển, đang phát triển và phát triển… gắn với các nấc thang đó là những giá trị nhất định, mà hiện tại chưa có sự thống nhất hoàn toàn.

Một số thước đo của sự tăng trưởng: tổng sản phẩm trong nước (GDP), tổng sản phẩm quốc dân (GNP), thu nhập bình quân đầu người

Một số chỉ số về cơ cấu kinh tế: chỉ số cơ cấu ngành trong tổng sản phẩm quốc nội, chỉ số về cơ cấu hoạt động ngoại thương (X-M), chỉ số về mức tiết kiệm – đầu tư (I).

2.1. Một số thước đo của sự tăng trưởng

Tổng sản phẩm trong nước (hay tổng sản phẩm quốc nội – GDP)

Thường được hiểu là toàn bộ sản phẩm và dịch vụ mới được tạo ra trong năm bằng các yếu tố sản xuất trong pham vi lãnh thổ quốc gia. Có nhiều cách tiếp cận khác nhau:

+ Về phương diện xa, GDP có thể được xác định bằng toàn bộ giá trị gia tăng của các ngành, các khu vực sản xuất và dịch vụ trong cả nước. Giá trị gia tăng được xác định dựa trên cơ sở hạch toán các khoản chi phí, các yếu tố sản xuất và lợi nhuận của các cơ sở sản xuất và dịch vụ.

Giá trị gia tăng (Y) = Giá trị sản lượng (GO) + Chi phí các yếu tố trung gian (IE)

+ Về phương diện tiêu dùng, thì GDP biểu hiện ở toàn bộ hàng hoá và dịch vụ cuối cùng tính theo giá hiện hành của thị trường được tạo ra trên phạm vi lãnh thổ quốc gia hàng năm

Xác định GDP theo tiêu dùng thường dùa trên cơ sở thống kê thực tế về tổng các khoản tiêu dùng của các hộ gia đình (C), tổng đầu tư cho sản xuất của các doanh nghiệp (I), các khoản chi tiêu của Chính phủ (G) và phần xuất khẩu ròng (X-M so sánh trong năm.

GDP=C + I + G + (X-M)

Do tính GDP theo giá hiện hành của thị trường, nó đã bao gồm cả thuế gián thu (Te), cho nên GDP tính theo giá thị trường sẽ chênh lệch với GDP tính theo các chi phí các yếu tố sản xuất một lượng giá trị, đó là thuế gián thu (Te)

GDP_sản xuất = GDP_tiêu dùng – Te =  C + I + G +(X-M)

Tổng sản phẩm quốc dân (GNP)

Tổng sản  phẩm quốc dân là toàn bộ sản phẩm và dịch vụ cuối cùng mà tất cả công dân một nước tạo ra và có thể thu nhập trong năm, không phân biệt sản xuất được thực hiện ở trong nước hay ngoài nước.

Nh­ vậy, GNP là thước đo sản lượng gia tăng mà nhân dân của một nước thực sự thu nhập được. So với GDP thì GNP chênh lệch một khoản thu  nhập tài sản với nước ngoài.

GNP = GDP + Thu nhập tài sản ròng từ nước ngoài

Với ý nghĩa là thước đo thu nhập của nền kinh tế với sự tăng oil GNP thực tế đó chính là sự gia tăng tăng trưởng kinh tế, nó nói lên hiệu quả của các hành động kinh tế đem lại.

GNP thực tế là GNP được tính theo giá cố định nhằm phản ánh đúng sản lượng gia tăng hàng năm, loại trừ những sai lệch do biến động giá cả tạo ra. Khi GNP tính theo giá thị trường thì đó là GNP danh nghĩa.

Thu nhập bình quân đầu người

Khả năng nâng cao phúc lợi vật chất cho nhân dân một số nước, không chỉ là tăng sản lượng của nền kinh tế, mà còn liên quan đến vấn đề dân số- con người. Nó tỷ lệ thuận với quy mô sản lượng và tốc độ tăng trưởng và tỷ lệ nghịch với dân số và tốc độ tăng trưởng dân số tự nhiên hằng năm. Do vậy chỉ số thu nhập bình quân đầu người là một chỉ số thích hợp hơn để phản ánh sự tăng trưởng và phát triển kinh tế. Mặc dù vậy, nó vẫn chưa nói lên mặt chất mà sự tăng trưởng đưa lại. Cho nên để nói lên sự phát triển người ta dùng hệ thống các chỉ số.

2.2. Một số chỉ số cơ cấu về kinh tế

Chỉ số cơ cấu ngành trong tổng sản phẩm quốc nội

Chỉ số này phản ánh tỷ lệ của các ngành công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ trong GDP. Nền kinh tế càng phát triển thì tỷ lệ sản lượng của công nghiệp và dịch vụ ngày càng cao trong GDP, còn tỷ lệ của nông nghiệp thi giảm đi tương đối.

Chỉ số về cơ cấu hoạt động ngoại thương (X-M)

Tỷ lệ của giá trị sản lượng xuất khẩu và nhập khẩu thể hiện sự mở cửa của nền kinh tế với thế giới. Một nền kinh tế phát triển thường có mức xuất khẩu ròng trong GDP tăng lên.

Chỉ số về mức tiết kiệm – đầu tư (I)

Tỷ lệ tiết kiệm – đầu tư trong tổng sản phẩm quốc dân (GNP) thể hiện rõ hơn về khả năng tăng trưởng kinh tế trong tương lai. Đây là một nhân tố cơ bản của sự tăng trưởng. Những nước có tỷ lệ đầu tư cao (từ 20 – 30% GDP) thường là các nước có mức tăng trưởng cao. Tuy nhiên tỷ lệ này còn phụ thuộc vào quy mô của GNP và tỷ lệ dành cho tiêu dùng (C) theo cơ cấu:

I = GNP – C + X – M

2 views0 comments

Recent Posts

See All

Tim hieu Bancassurance o Viet Nam

Luận Văn Việt Group chuyên làm luận văn thuê cần thơ xin chia sẻ bài viết về Bancassurance là gì? Lý thuyết căn bản về Bancassurance...

Mau loi nhan xet cua don vi thuc tap tot nghiep moi nhat

Luận Văn Việt chuyên viết thuê luận văn thạc sĩ uy tín xin chia sẻ bài viết về Mẫu lời nhận xét của đơn vị thực tập tốt nghiệp chuẩn. Sau...

Comments


© 2013 by luanvanviet.com

Theo dõi

  • Fanpage Luận Văn Việt

Thanks for submitting!

bottom of page